Là một nước có lợi thế về xuất khẩu nông sản nhưng đến nay Việt Nam vẫn loay hoay chọn những giải pháp, ví dụ thực tiễn về thương hiệu cà phê Chồn của Indonesia là một bài học đáng để chúng ta suy nghĩ.
Trào lưu cà phê Kopi Luwak đang trở thành một hiện tượng tại Mỹ thời gian gần đây. Kopi Luwak được làm từ hạt cà phê nhưng phải trải qua một công đoạn chế biến đặc biệt, với sự trợ giúp của những chú chồn. Mỗi tách cà phê chồn có giá khoảng 30 USD.
Thực ra loại cà phê này đã được phát hiện cách đây hàng trăm năm, khi những người châu Âu được nếm thử chúng ở đảo Java, Sumatra và Sulawesi của Indonesia. Hiện nay, trên thế giới, Indonesia là quốc gia chuyên sản xuất cà phê chồn Kopi Luwak (tiếng Indonesia, Kopi là cà phê, Luwak là chồn).
Tuy nhiên, loại cà phê này khá hiếm, người ta chỉ thu được khoảng dưới 500 kg trong một năm. Trên thực tế Indonesia là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 4 thế giới và với một sản lượng khiêm tốn như vậy thì dù giá có lên tới hàng nghìn USD/kg thì doanh số thu được mỗi năm cũng không nhiều. Tuy nhiên với dòng sản phẩm này Indonesia đã quảng bá rất tốt thương hiệu cà phê của họ ra thế giới.
Theo Hiệp hội cà phê, sản lượng cà phê của Việt Nam ở mức ổn định khoảng 1 triệu tấn/năm với 500 nghìn ha diện tích. Việt Nam hiện đang là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới sau Brazil, tức là trên Indonesia 2 bậc. Doanh thu xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong năm 2010 dự kiến khoảng 1 tỷ USD.
Tuy nhiên trên thị trường quốc tế, Việt Nam chưa có thương hiệu cà phê nổi tiếng. Nguyên nhân như phần lớn các mặt hàng nông sản khác, cà phê của ta chủ yếu là xuất thô chứ chưa chế biến sâu vì vậy giá trị gia tăng rất thấp. Cũng chính vì chủ yếu là xuất thô nên các doanh nghiệp chưa chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu.
Trở lại câu chuyện cà phê chồn, Ở Việt Nam, cà phê chồn cũng không phải quá xa lạ. Tại huyện Kbang, tại thôn 1, thị trấn huyện có ông Nguyễn Văn Thưởng nuôi 10 con chồn hương để thu cà phê chồn và bán cà phê chồn với giá 500.000 đồng/kg hạt. Ở huyện Krông Păk, tỉnh Đăk Lăk gia đình anh Nguyễn Quốc Khánh đang nuôi đàn chồn trên 46 con được kiểm lâm cấp phép, theo dõi. Một cặp chồn có thể cho 6-12 triệu đồng/năm từ việc bán cà phê đặc sản.
Còn nhớ cách đây khoảng chục năm trong hệ thống cửa hàng cà phê của một thương hiệu cà phê khá nổi tiếng ở Việt Nam cũng có bán cà phê chồn với giá khoảng 30.000 đồng/ly. Nó tạo ra một trào lưu… nhà nhà bán cà phê chồn. Và với hệ thống hàng trăm cửa hàng trên toàn quốc rất có thể mỗi tháng sản lượng tiêu thụ của thương hiệu cà phê này còn lớn hơn cả sản lượng của Indonesia sản xuất trong một năm.
Điều đó khiến người tiêu dùng không khỏi bồn chồn suy nghĩ liệu đó có phải là cà phê chồn thực sự? Bởi vậy, chỉ trong một thời gian ngắn sản phẩm cà phê chồn của hãng này bị rơi vào quên lãng.
Cà phê chồn có tại Indonesia cách đây hàng trăm năm và sản lượng của nó dường như không thay đổi. Một phần là do nguyên nhân khách quan, nhưng cũng có thể họ ý thức được rằng dù có tăng sản lượng lên nhiều lần đi chăng nữa thì nó cũng không phải là nguồn thu chính của ngành cà phê Indonesia và điều họ phải làm là duy trì được uy tín cũng như chất lượng đảm bảo. Bởi mục tiêu cao hơn là xây dựng được hình ảnh thương hiệu cà phê của Indonesia trên trường quốc tế thông qua một sản phẩm đặc thù.
Chuyện làm thế nào để nâng cao giá trị hàng nông sản Việt Nam trong đó có cà phê luôn là câu chuyện luẩn quẩn trong khi những bài học từ thực tế không phải là hiếm
Theo kienthuckinhte.com