Thoái vốn không làm ảnh hưởng nhiều đến ngân hàng

TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng việc thoái vốn của các tập đoàn lớn tại một số tổ chức tín dụng sẽ không ảnh hưởng nhiều, vì đây là lộ trình đã được các ngân hàng chuẩn bị trước.

Những năm trước khi nền kinh tế phát triển nóng và nhanh, các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước muốn đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư nên đã tham gia vào nhiều lĩnh vực như bất động sản, ngân hàng, sản xuất hàng tiêu dùng… Ngân hàng vốn được coi là lĩnh vực kinh doanh “hot” nên thu hút khá nhiều vốn đầu tư của các đơn vị lớn.
Nhưng khi nền kinh tế thế giới và trong nước tăng trưởng chậm lại, thậm chí suy thoái như lúc này, việc thoái vốn ra khỏi ngành Ngân hàng của các tập đoàn lớn Nhà nước là hợp lý và cũng là thực hiện yêu cầu của Chính phủ (đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước).

Thưa ông, liệu việc thoái vốn bằng cách bán cổ phần của các tập đoàn trên có khả thi trong bối cảnh hiện nay?
Vấn đề không phải là có hay không khả thi thì mới bàn đến việc thực hiện, mà đây là việc làm bắt buộc của các “ông lớn” này theo lộ trình của Chính phủ. Mặc dù việc thoái vốn lần này có khả năng làm mất một phần giá trị vốn của Nhà nước. Nhưng điều tôi muốn nhấn mạnh là việc chấp nhận hay không chấp nhận mất mát về phía Nhà nước có thể là chìa khóa của vấn đề thoái vốn hay không thoái vốn.
Tại sao tôi lại nói vậy? Như đã biết, thời kỳ đỉnh cao của thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu của các ngân hàng tương đối cao. Nhiều cổ phiếu ngân hàng cao gấp 100 lần so với mệnh giá. Chính vì vậy, không ai nghĩ đến một kịch bản xấu như thời điểm này: giá cổ phiếu sụt giảm thê thảm, một số cổ phiếu chỉ còn 10 – 20% trên giá mua vào lúc trước. Nên trong bối cảnh nền kinh tế suy giảm, để có thể thoái vốn buộc các tập đoàn, tổng công ty lớn phải bán với giá thấp hơn giá mua vào rất nhiều.
Lý do mất vốn Nhà nước là như vậy và đây cũng là cái giá chúng ta phải chấp nhận để tái cơ cấu nền kinh tế. Song tôi cho rằng vấn đề quan trọng tạo nên sự thành công trong việc thoái vốn đó là không nên quy trách nhiệm hình sự cho những lãnh đạo tổng công ty thoái vốn khi mà mất tài sản của Nhà nước.

Nhưng thưa ông, luật pháp quy định rõ người làm thất thoát vốn Nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự?
Ở đây chúng ta phải làm rõ, việc giá cổ phiếu ngân hàng xuống thấp khiến giá trị các khoản đầu tư bị “bốc hơi” nhiều khi không phải do lỗi chủ quan từ lãnh đạo của các tập đoàn, tổng công ty gây nên, mà do những biến động của nền kinh tế vĩ mô, thị trường. Do đó, chỉ có thể quy trách nhiệm hình sự, thương mại cho các lãnh đạo của các đơn vị này khi họ không làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
Ví dụ: không cử người tham gia HĐQT hoặc không sâu sát, giám sát hoạt động ngân hàng mặc dù là cổ đông lớn; lơ là trách nhiệm… Chứ nếu thoái vốn thấp hơn giá trị sổ sách rồi quy mất vốn Nhà nước, buộc họ chịu trách nhiệm hình sự, thì tôi nghĩ không có đơn vị nào thoái vốn. Dù bắt buộc theo lộ trình thì họ cũng tìm mọi cách trì hoãn.

Về phía các ngân hàng, ông đánh giá thế nào về tác động của việc thoái vốn, nhất là các cổ đông lớn?
Theo tôi, thoái vốn không ảnh hưởng nhiều đến ngân hàng. Vì các nhà đầu tư mua – bán cổ phần theo thỏa thuận trên thị trường thứ cấp, nên không ảnh hưởng đến dòng vốn nội tại ngân hàng. Vấn đề ở đây là nhà đầu tư (NĐT) nào đủ tiềm lực tài chính để mua lại số cổ phần lớn như vậy để tham gia vào quản trị ngân hàng.
Có thể nói, việc đi tìm NĐT chiến lược có đủ tiềm lực sẽ là bài toán khó khăn lúc này. Thực tế hai khối NĐT nội và ngoại có thể giúp các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước thoái vốn, bởi khối NĐT ngoại khả năng tài chính lớn, dễ dàng mua vài chục phần trăm cổ phiếu của một ngân hàng lớn. Nhưng, đáng tiếc, hiện tại NĐT ngoại cũng tỏ ra không mặn mà và nhiều NĐT có tiềm năng tài chính lớn này cũng đang đứng ngoài cuộc để chờ thời.
Trong khi đó, nền kinh tế nước ta vẫn đang đối mặt với khó khăn, trì trệ nên khả năng đầu tư tài chính của NĐT trong nước cũng giới hạn. Và quan trọng là trong bối cảnh hiện nay, cổ phiếu ngân hàng cũng không còn hấp dẫn nữa.

Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi!

Theo Thời báo ngân hàng